Hán
Cao Tổ - Lưu Bang
I. Giới thiệu chung
Hán Cao Tổ Cao Hoàng Đế, nhưng thường được gọi tắt là Hán Cao Tổ là vị Hoàng đế sáng
lập nhà Hán trong lịch sử Trung Quốc. Ông họ Lưu tên Bang, sử quan
đời Hán chép là Lưu Quý vì ông là con thứ ba trong gia đình (vì sợ phạm húy nên không viết,
tên Quý chứng tỏ Lưu Bang là con thứ ba, theo tứ tự: Bá, Trọng, Quý.)
Ông ở ngôi Hoàng đế được
8 năm (từ năm 202 TCN đến 195 TCN),
nếu tính cả thời gian đầu (từ năm 206 TCN lúc
ông mới xưng Vương) thì thời gian ở ngôi tổng cộng là 12 năm.
Lưu Bang là
một vị vua sáng lập ra một triều đại xuất phát từ giai cấp nông dân. Trong giai
đoạn đầu, Lưu Bang đã được biết đến với danh hiệu "Bái công", với chữ
"Bái" là đề cập đến quê hương của ông. Ông cũng được phong là
"Hán vương" bởi Hạng Vũ khi
chia đế chế Tần thành Mười
tám nước. Lưu Bang được biết đến bởi
danh hiệu này trước khi trở thành Hoàng đế của
Trung Quốc.
II.Tiểu sử
Lưu Bang
được sinh ra trong một gia đình nông dân ở người ở thôn Dương Lý, huyện Bái, nay là thành phố
Từ Châu, Trung Quốc. Tên cha mẹ của ông
không được ghi lại trong lịch sử và chỉ được gọi là Lưu Thái Công và Lưu Ẩu. Người
ta nói rằng mẹ ông do mang thai với rồng mà sinh ra Lưu Bang.
Theo Sử ký Tư Mã Thiên, Lưu Bang có mũi cao, râu dài giống rồng và có 72 nốt
ruồi trên chân trái. Ông không lo nghĩ đến sản nghiệp, không câu nệ chuyện nhỏ
nhặt. Tính tình tuy khá buông thả (Sử ký mô tả là “thích rượu và gái”), song
lại thẳng thắn, lôi cuốn, lại biết nhẫn nhục và khoan dung.
Lưu Bang
từng phải đi phu ở Hàm Dương và từng trông thấy vua Tần Thủy Hoàng. Sau đó ông làm Đình trưởng ở Tứ Thượng. Từ đó, ông
quen biết và thân thiện với những người như Hạ Hầu Anh, Tiêu Hà, Tào Tham.
Trong khi uống rượu với bạn bè của mình trong các quán rượu địa phương, họ
thường nhận thấy hình bóng của một con rồng trên người Lưu Bang bất cứ khi nào
ông say rượu, vì vậy các chủ quán rượu cảm thấy Lưu Bang là một người phi
thường và thường cho ông uống rượu miễn phí.
Ông có vợ
là hoàng hậu Lã Trĩ cùng với 7 phi tần thường được nhắc đến và hàng ngàn phi
tần được tuyển chọn. Ông cũng có 9 người con với các bà vợ của mình trong đó có
Lưu Doanh sau này là Hán Huệ Đế và Lưu Hằng sau là Hán Văn Đế
III. Sự nghiệp
Sự nghiệp của Lưu Bang có thể tóm tắt
thành 3 giai đoạn chính:
1) Khởi binh chống Tần
*Trảm xà khởi nghĩa ( khởi
nghĩa chém rắn)
Lưu
Bang được huyện lệnh huyện Bái giao trọng trách đưa một số người bị kết án và
dân phu đi tới núi Lý Sơn để xây dựng lăng mộ
của Tần Thủy Hoàng. Vốn sợ nặng nhọc, đi đến nữa đường, bọn dân phu trốn quá nữa,
đêm đến nghỉ tại trạm Chãm Phong Tây, Lưu Bang thương tình cho trốn, với hơn mười
tráng sĩ đều nguyện đi theo giúp sức. Trong truyền thuyết, họ gặp phải một con mãng xà đã giết chết một số
người bằng hơi thở độc hại của nó. Lưu Bang bèn giết mãng xà và sau đó gặp phải
một bà già khóc lóc trên đường vào sáng hôm sau. Khi người của Lưu Bang hỏi tại
sao lại khóc, bà trả lời: "Con tôi, con trai của Bạch đế, bị giết chết bởi
con trai của Xích đế" và biến mất một cách bí ẩn. Nghe được câu chuyện lạ
lùng này, người của Lưu Bang tin rằng ông có chân mệnh đế vương. Sự kiện này do
đó được gọi là Trảm xà khởi nghĩa.
*Thu
phục huyện Bái
Lưu Bang và
những người theo ông lẩn trốn trên núi Mang gần đất Bái và sống ngoài vòng pháp
luật. Ông tuy vậy vẫn duy trì việc bí mật liên lạc với bạn bè cũ của mình ở quê
nhà, chẳng hạn như Tiêu Hà và Tào Tham.
Tháng 7 năm 209 TCN, Trần Thắng và Ngô Quảng khởi
nghĩa, khắp Sơn Đông, Hà Bắc các nơi đều hưởng ứng. Quan lại địa phương của nhà
Tần không chế ngự được.
Quan huyện
Bái thấy khắp nơi, anh hùng đứng lên khởi nghĩa nên cũng muốn khởi quân tham
gia, bèn theo lời khuyên của Tiêu Hà, Tào Tham, cho Phàn Khoái (một họ hàng của Lưu Bang) mời Lưu Bang về để tăng
thanh thế. Lưu Bang cùng người của mình đến nơi, quan huyện lại đổi ý, đóng cửa
thành, lại muốn giết cả Tiêu Hà, Tào Tham vì sợ những người này làm nội ứng.
Tiêu Hà, Tào Tham trốn theo Lưu Bang, bàn kế cho Lưu Bang bắn thư vào thành
thuyết phục các bậc trưởng lão để họ cho con em đuổi quan huyện để đón mình. Kế
thành công. Lưu Bang được tôn làm “Bái Công” lãnh đạo con em huyện Bái tham gia
khởi nghĩa.
*Tìm nơi nương tựa
Năm 208 TCN,
Giám quận Tứ Xuyên của nhà Tần tên là Bình đem quân vây đất Phong. Lưu Bang
xông ra đánh, thắng trận. Lưu Bang sai Ung Xỉ giữ đất Phong, còn mình đem binh
đến đất Tiết, đánh thái thú ở Tứ Xuyên của nhà Tần tên là Tráng. Tráng bị đánh
bại bỏ chạy đến huyện Thích, bị Tả tư mã của Lưu Bang bắt được và giết chết.
Lưu Bang quay về đóng quân ở
Cang Phụ và đi đến quận Phương Dư. Cùng lúc đó tướng nước Ngụy là Chu Thị
sai người dụ Ung Xỉ đang giữ đất Phong. Ung Xỉ thuận hàng theo nước Ngụy.
Lưu Bang bị
mất đất Phong rất tức giận nhưng sức không đủ chiếm lại. Lúc đó ông nghe tin
nói Ninh Quân và Tần Gia đã
lập Cảnh Câu làm
Sở Giả vương ở thành Lưu để thay thế Trần Thắng bị hại, bèn đến theo họ, ý muốn xin quân để đánh đất
Phong. Hai người đem quân trở về, tập hợp quân ở đất Lưu rồi đem binh đánh
chiếm được đất Đường, thu binh được hơn 5000 người. Sau đó, ông đánh lấy được
Hạ Ấp rồi cùng Ninh Quân đem quân về đóng gần đất Phong.
Ít lâu sau, Hạng Lương khởi binh ở đất Ngô, vượt sông Trường Giang, đánh diệt
Tần Gia. Lưu Bang nghe tin Hạng Lương đóng quân ở thành Tiết, nên đem một trăm
quân kỵ yết kiến. Hạng Lương cho Lưu Bang 5000 quân, 10 ngũ đại phu làm tướng.
Quân Tần
lại tập hợp lại, ở thành giữ Bộc Dương, dựa vào sông ngòi vây bọc để cố thủ.
Lưu Bang và Hạng Vũ không hạ được bèn bỏ đi, đánh Định Đào nhưng không hạ được
thành, lại đem quân về phía tây cướp đất. Hai tướng đi đến chân thành Ung Khâu,
đánh nhau với quân Tần, chém được Thái thú quận Tam Xuyên của nhà Tần là Lý Do
(con Tả thừa tướng Lý Tư) rồi
quay về đánh Ngoại Hoàng nhưng không lấy được, lại đi đánh Trần Lưu.
*Tây tiến vào Hàm
Dương
Lưu Bang
đem quân đi về hướng tây gặp Bành Việt ở
Xương Ấp, cùng nhau tấn công thành này nhưng không hạ được. Ông bèn chia tay
Bành Việt quay về đến đất Lật, gặp Cương Vũ Hầu, cướp quân của Cương Vũ Hầu được
hơn 4000 người gộp vào quân mình, rồi cùng tướng nước Ngụy là Hoàng Hân, và Thân Đồ Vũ Bồ hợp lực đánh Xương Ấp
nhưng chưa lấy được.
Lưu Bang được
Nho sĩ Lịch Tự Cơ khuyên Lưu Bang đánh úp thành Trần Lưu, nhờ vậy lấy
được thóc lúa của nhà Tần để lại. Lưu Bang cho Lịch Tự Cơ làm Quảng Dã Quân,
cho em Tự Cơ là Lịch Thương làm tướng, chỉ huy quân ở Trần Lưu và cùng họ đánh
Khai Phong nhưng chưa lấy được Khai Phong.
Lưu Bang
lại mang quân sang phía tây đánh nhau với tướng Tần là Dương Hùng ở Bạch Mã,
lại đánh ở phía đông Khúc Ngộ. Tần Nhị Thế sai sứ giả chém Dương Hùng để răn mọi người. Lưu Bang
mang quân về phía nam đánh Dĩnh Dương.
Nghe theo
kế của Trương Lương, ông tiến quân chiếm đất Hàn và đất Hoàn Viên. Cùng lúc đó tướng nước Triệu là Tư
Mã Ngang đang muốn vượt sông Hoàng Hà để
vào Quan Trung trước các chư hầu. Lưu
Bang liền đánh Bình Âm ở phía Bắc, cắt đứt bên sông phía nam sông Hoàng Hà,
chặn đường Tư Mã Ngang và vây thành Nam Dương.
Thái thú
Nam Dương là Nghị sợ hãi muốn đâm cổ chết, nhưng nghe lời môn hạ là Trần Khôi
khuyên, bèn đầu hàng. Lưu Bang phong cho Nghị làm Ân Hầu, phong cho Trần Khôi
1000 hộ.
Lưu Bang
sai người nước Ngụy là Ninh Xương đi sứ đến Tần. Sứ giả chưa đến thì tướng Tần
là Chương Hàm đã đem quân đầu hàng Hạng Vũ ở đất Triệu; các chư hầu
đều theo Hạng Vũ.
Cuối năm 207 TCN, hoạn quan Triệu Cao giết Tần Nhị Thế và cho người đến gặp Lưu Bang, muốn giao ước chia đất
Quan Trung và làm vương. Lưu Bang lại đánh nhau với quân Tần ở phía nam Lam
Điền, càng treo thêm cờ xí để làm nghi binh, đi đến đâu thì cấm không được cướp
bóc bắt bớ. Người Tần do đó mừng rỡ, quân đội Tần tan rã, Lưu Bang nhân đó
thắng được quân Tần. Ông tiến quân lên phía bắc thắng quân Tần một trận nữa.
Tháng 10
năm 206 TCN,
quân của Lưu Bang đến Bá Thượng trước quân chư hầu. Vua Tần là Tử Anh đi xe mộc do ngựa trắng kéo, ở cổ quấn sợi dây ấn,
niêm phong ấn hoàng đế, phù và cờ tiết đầu hàng ở gần Chỉ Đạo. Lưu Bang cho Tử
Anh đầu hàng. Các tướng có người bàn nên giết vua Tần, nhưng Lưu Bang không
nghe theo.
*Lui bước trước Hạng Vũ
Lưu Bang đi về phía tây vào Hàm Dương muốn dừng lại ở trong
cung thất nhà Tần nghỉ ngơi. Phàn Khoái và Trương Lương can không nên, Lưu Bang
mới niêm phong kho tàng, của quý báu của Tần rồi trở về đóng quân ở Bá Thượng,
triệu tập các vị phụ lão và những thân hào ở các huyện đến và tuyên bố:
"Ta cùng chư hầu giao ước: "Ai vào Quan Trung
trước thì người ấy được làm vua". Vậy ta phải làm vua ở Quan Trung. Ta cam
kết với các vị phụ lão rút gọn pháp luật và ban ba điều mà thôi: Ai giết người
thì phải chết, làm người bị thương và ăn trộm thì theo tội mà xử. Còn bỏ tất cả
luật pháp của Tần. Quan lại và nhân dân vẫn bình an như xưa. Ta đến đây chẳng
qua là vì các vị phụ lão trừ hại chứ không phải cốt xâm phạm, làm việc hung
bạo. Không có gì phải sợ. Vả lại ta sở dĩ quay về đóng quân ở Bá Thượng là để
đợi quân của chư hầu đến định điều giao ước mà thôi."
Lưu Bang sai người cùng quan lại nhà
Tần đi các huyện, các làng, các ấp
tuyên truyền lệnh đó. Người Tần rất mừng, tranh nhau mang bò, dê, rượu, thức ăn
đến để khao quân sĩ, nhưng Lưu Bang đều từ chối không nhận.
Có người hiến kế Lưu Bang nên giữ lấy đất Tần hiểm trở giàu
có để chống lại chư hầu, án ngữ cửa Hàm Cốc không cho quân chư hầu vào, và
trưng thêm quân ở Quan Trung cho thêm đông để chống lại. Lưu Bang cho là phải
và theo kế đó.
Giữa tháng 11 năm 206
TCN, Hạng
Vũ thống lĩnh quân chư hầu tiến
vào nước Tần, tới cửa ải Hàm Cốc, nhưng ải đã bị phong tỏa. Hạng Vũ lại nghe
nói Lưu Bang đã bình định được Quan Trung, rất tức giận, sai Anh
Bố tấn công phá cửa Hàm Cốc.
Chú Hạng Vũ là Hạng
Bá muốn cứu bạn là Trương Lương đang
phục vụ cho Lưu Bang nên đang đêm đến gặp Trương Lương, khiến ý định của Hạng
Vũ bị lộ. Trương Lương dắt luôn Hạng Bá vào gặp Lưu Bang. Ông bèn kết thân với
Hạng Bá, hẹn nhau làm thông gia và nhờ nói giúp với Hạng Vũ rằng mình không có
ý định chống lại. Hạng Bá trở về khuyên Hạng Vũ, vì vậy Hạng Vũ thôi không khai
chiến với Lưu Bang.
Hôm sau, Lưu Bang đến Hồng Môn yết kiến và xin lỗi Hạng Vũ.
Hạng Vũ cho ông biết là do Tào Vô Thương đề nghị nên Hạng Vũ mới chuẩn bị giao
chiến. Lưu Bang nhờ Phàn
Khoái và Trương Lương nên thoát nạn
về. Về tới Bá Thượng, Lưu Bang bèn giết Tào Vô Thương.
2)
Tranh thiên hạ với Hạng Vũ
*Bình định Tam Tần
Trở thành
người đứng đầu chư hầu, Hạng Vũ phân
chia lại các vùng đất không chỉ của Tần mà của cả các nước chư hầu khác có tham
gia vào cuộc khởi nghĩa thành 19 nước. Hạng Vũ không thực hiện lời hứa của Sở Hoài Vương và nhanh chóng ám sát Hoài Vương. Thay vào đó Hạng Vũ
chia Quan Trung 4 phần, với lý do Hán Trung cũng thuộc Quan Trung nên phong Lưu
Bang làm Hán Vương cai trị
vùng thuộc Tứ Xuyên, Trùng Khánh và phía nam Thiểm Tây hiện
nay. Phần lớn đất Tần cũ, Hạng Vũ chia cho 3 tướng Tần theo hàng mình là Chương Hàm (Ung vương), Đổng Ế (Địch
vương) và Tư Mã Hân (Tắc
Vương), gọi là Tam Tần để đề phòng Lưu Bang tiến về đông.
Tháng 4 năm
206 TCN, Lưu Bang trở về đất phong, được cấp 3 vạn quân. Theo lời khuyên của Trương Lương, ông đi qua đường sạn đạo xong liền đốt và cắt đứt
đường sạn đạo để đề phòng quân chư hầu đánh úp, đồng thời để chứng tỏ cho Hạng
Vũ thấy rằng mình không có ý đi về hướng đông.
Tướng sĩ
dưới quyền ông nhiều người không muốn vào đất Thục hiểm trở mà muốn trở về quê
ở phương đông. Khi đến Nam Trịnh, các tướng sĩ nhiều người trốn về. Theo sự
tiến cử của Tiêu Hà và Hạ Hầu Anh, Lưu Bang bèn phong Hàn Tín –
người vừa bỏ trốn từ nước Sở sang – làm đại tướng, giao cho việc đánh Sở.
Tháng 8 năm
206 TCN, Hán vương dùng mưu kế của Hàn Tín đi qua huyện Cố Đạo đánh úp Ung
vương Chương Hàm. Chương Hàm bị quân Hán đánh bại ở Trần Thương, thua chạy đến
đất Hạo Trĩ dừng lại đánh. Hàn Tín đánh bại Chương Hàm lần thứ 2, Hàm phải bỏ
chạy về Phế Khâu cố thủ.
Lưu Bang
đuổi theo, chiếm đất đai của Ung vương, một mặt điều quân vây Phế Khâu, mặt
khác đi về đông đánh Hàm Dương và bình định Lũng Tây, Bắc Địa, Thượng Quân. Ông
các tướng Tiết Âu, Vương Hấp ra khỏi ải Vũ Quan cùng Vương Lãng đi đón cha là
Thái Công và vợ là Lã Trĩ đang ở đất Bái. Quân Sở nghe tin ấy cho quân chặn ở
Dương Hạ nhưng cuối cùng quân Hán vẫn đến trước.
Năm 205
TCN, Hán vương đem quân đánh Tắc Vương Hân và Địch vương Ế và Hà Nam vương Thân
Dương. Ba vua chư hầu không
chống nổi phải đầu hàng.
*Tiến vào Bành Thành
Hàn vương
Trịnh Xương (được Hạng Vũ cử thay Hàn vương Thành)
chống lại quân Hán không chịu hàng, bị Đại tướng Hàn Tín đánh bại. Sau khi đánh
chiếm nước Hàn, Lưu Bang lập viên tướng và là dòng dõi nước Hàn cũ, cũng tên là Hàn Tín làm Hàn vương.
Tháng ba
năm đó, Hán vương từ Lâm Tấn vượt qua sông đánh Ngụy. Tây Ngụy vương Báo đầu hàng, đem binh theo Hán vương lấy Hà Nội. Ân vương Tư Mã Ngang bị bắt. Hán vương bèn vượt qua
sông Hoàng Hà ở bến Bình Âm, rồi đem quân đến Lạc Dương. Lúc bấy giờ Hạng vương đang đem quân về hướng bắc
đánh Tề, chưa bình định được. Nhân cơ hội ấy Hán vương thúc ép quân năm nước chư
hầu đánh vào Bành Thành, kinh đô Tây Sở.
Sau khi
chiếm được Bành Thành, Hán vương không chú ý phòng thủ, sa vào hưởng thụ. Hạng
Vũ nghe tin, đem 3 vạn quân từ đất Tề trở về đánh Bành Thành, đại phá quân Hán.
Ông được Hạ Hầu Anh đánh xe chạy trốn, bị quân Sở đuổi phía sau. Giữa đường gặp
con trai Lưu Doanh cùng con gái. Sợ xe nặng đi chậm, Lưu Bang đẩy hai con
nhỏ ra khỏi xe. Hạ Hầu Anh vội nhảy xuống bế lên. Lưu Bang thấy quân Sở đuổi
gần lại đẩy con xuống. Cứ như vậy 3 lần nhưng Hạ Hầu Anh đều xuống cứu hai con
ông, cuối cùng cả 4 người đi thoát.
*Hòa ước Hồng Câu và xé bỏ hòa ước
Hạng Vũ đánh mãi không thắng bèn mang cha Lưu Bang là Thái
công ra đặt lên thớt để buộc ông phải hàng, dọa nếu không hàng thì giết Thái
công. Lưu Bang sợ bị người chê cười là kẻ bất hiếu nên có ý hàng, nhưng Tiêu
Hà ngăn lại và hiến kế cho Lưu
Bang đối đáp. Lưu Bang đứng trên thành, dõng dạc trả lời Hạng Vũ: “Ta và
ngươi đã kết làm anh em, cha ta cũng như cha ngươi. Nếu ngươi muốn giết cha
ngươi thì cho ta xin bát canh với”. Hạng Vũ nghe nói như vậy đành thôi ý
định dùng Thái công để dọa ông.
Sau
đó Lưu Bang và Hạng Vũ gặp nhau ở Quảng Vũ đối trận. Hạng Vũ ngầm bắn trúng Lưu
Bang. Ông bị trúng tên ở bụng nhưng lại sờ vào ngón chân kêu đau, khiến tướng
sĩ nghĩ rằng ông bị thương nhẹ.
Hai bên thu quân về. Lưu Bang bị thương nặng phải nằm. Trương Lương ép
nài ông cố gắng trấn an quân sĩ để quân sĩ an lòng đừng cho quân Sở thừa cơ
đánh thắng Hán. Vì ông cố đi ra trước hàng quân bệnh càng nặng thêm. Sau đó ông
chạy vào Thành Cao.
Ít lâu sau khỏi bệnh, ông vào Quan Trung tập hợp thêm binh
sĩ rồi trở lại Quảng Vũ. Hạng Vũ lo lắng bèn cùng Lưu Bang giao ước chia khoảng
giữa thiên hạ.
Theo giao ước, cắt đất từ Hồng Câu về phía tây là của Hán;
từ Hồng Câu về phía đông là của Sở. Hạng vương trả lại cha và vợ Hán vương. Sau
đó hai bên trở về và từ biệt ra đi mỗi người một phía.
Lưu Bang
định làm theo hòa ước đem quân về phía tây nhưng Trần Bình và Trương Lương khuyên ông nên xé bỏ hòa ước, tiến quân đuổi đánh Hạng
Vũ để nhanh chóng diệt Sở.
Lưu Bang
nghe theo, bèn tiến quân đuổi theo, dừng lại ở Dương Hạ, hẹn các chư hầu cùng
đánh Sở. Nhưng khi đại quân Lưu Bang tới Cố Lăng thì quân Hàn Tín, Bành Việt
vẫn không đến. Kết quả quân Hán bị quân Sở đánh cho đại bại. Lưu Bang lại vào
thành, đắp thành cao, đào hào sâu để giữ.
Theo kế của
Trương Lương, ông sai sứ đi đề nghị Hàn Tín và Bành Việt ra
quân, hứa sẽ phong cho 2 người ở nước Tề và nước Lương sau khi thành công. Mặt
khác, ông gọi thêm các hàng tướng nước Sở như Anh Bố, Chu Ân cùng Lưu Giả đánh
vào hậu phương của Hạng Vũ.
Năm 202 TCN, Hàn
Tín và Bành Việt mang đại quân đến họp. Các cánh quân cùng vây đánh Hạng Vũ ở
Cai Hạ. Quân Hán quá đông khiến Hạng Vũ không địch nổi, phải rút vào thành Cai
Hạ. Sau đó quân Sở tan rã, Hạng Vũ bỏ thành chạy. Lưu Bang sai kỵ tướng quân
Quán Anh đuổi theo. Hạng Vũ chạy đến Ô Giang thì tự vẫn, nước Sở hoàn toàn bị
tiêu diệt.
3)
Lập quốc và cai trị đất nước
Thắng trận, Lưu Bang vội vã trở về đến Định Đào, phi ngựa
vào thành của Tề vương Tín, cướp quân của Hàn Tín lần thứ 2.
Sau khi diệt Sở, Lưu Bang lên ngôi hoàng đế ở phía bắc sông
Tự Thủy, tức là Hán Cao Tổ. Ông tôn cha là Thái công làm Thái thượng hoàng, lập
Lã Trĩ làm hoàng hậu, con trai Lã Trĩ là Lưu Doanh làm thái tử.
Hán Cao Tổ đóng đô ở Lạc Dương là kinh đô cũ của nhà Đông Chu.
Sau
khi lên ngôi hoàng
đế, Hán Cao Tổ tái tập trung quyền lực quốc gia theo hệ thống
nhà Tần. Ông ra lệnh người ở lại Quan Trung sẽ được miễn thuế và sưu
dịch trong
mười hai năm, những người trở về đất sắc phong của mình sẽ được miễn trong sáu
năm và nhà nước cung cấp cho họ trong một năm. Bởi vì nền kinh tế bị tàn phá bởi
chiến tranh sau sự sụp đổ nhà Tần, ông cho giảm thuế và giảm bắt dân đi phu,
ông cho phát triển nông nghiệp, hạn chế chi tiêu và mang tự do cho những kẻ đã
bán mình làm nô
lệ để
tránh nạn đói trong chiến tranh.
Năm 195
TCN, Cao Tổ đã ban hành hai nghị định, một là chính thức hóa việc
hạ thấp thuế và sưu dịch, thứ hai là thay đổi số lượng cống phẩm của các nước chư
hầu vào mỗi tháng 10 hàng năm. Thuế đất sản xuất nông nghiệp được giảm. Ông
cũng cho tư nhân đúc tiền. Tuy nhiên, vì đã chứng kiến điều mà ông cho là sự
suy đồi của giới nhà buôn thời Tần, ông hạn chế thương mại bằng cách áp đặt thuế
cao và luật hóa các quy định đối với nhà buôn.
Về tôn giáo, trong những
ngày đầu tiên, Cao Tổ không thích đọc và hạ thấp Nho giáo. Sau khi ông lên ngôi, ông vẫn giữ
quan điểm đối với Nho giáo như trước, cho đến khi ông gặp học giả Lục Cố. Lục
Cố đã viết một cuốn sách tên Tân Dư, nhấn mạnh lợi ích của việc quản lý đất
nước bằng đạo đức hơn là sử dụng pháp luật cưỡng chế. Lục Cố đọc từng chương
cho hoàng đế sau khi viết xong, khiến Cao Tổ vô cùng ấn tượng. Dưới triều đại
của Hán Cao Tổ, ảnh hưởng của Nho giáo trỗi lên và dần dần thay thế Pháp gia. Các học giả Nho giáo, bao gồm Lục
Cố, đã được tuyển dụng vào triều đình và Cao Tổ cũng tiến hành cải cách hệ
thống pháp luật, giảm bớt các luật lệ khắc nghiệt từ thời nhà Tần và giảm mức
hình phạt.
Vào
thời của Tần Thủy Hoàng, mối đe dọa của Hung Nô ở
phía bắc đã xuất hiện. Năm 201 TCN, Hung Nô tấn công nhà Hán, Hàn vương Tín đầu hàng. Mùa đông năm 200 TCN, Hán Cao Tổ đích thân
ra quân đánh Hung Nô.
Tại trận
Bạch Đăng, 7 vạn quân Hán bị khoảng 300.000 kỵ binh Hung
Nô bao vây. Cao Tổ bị cắt nguồn tiếp tế và cứu trợ trong 7 ngày, trong hoàn
cảnh rất nguy khốn. Ông theo lời của Trần Bình sai
người đến thuyết phục vợ tướng Hung Nô Mặc Đốn là Yên Chi tác động, Mặc Đốn mới
rút quân.
Sau thất
bại tại Bình Thành, Hán Cao Tổ từ bỏ giải pháp quân sự đối
với mối đe dọa từ phía Hung Nô. Ông quyết định nhân nhượng họ bằng cách gả con
gái các gia đình quý tộc và cung cấp cống phẩm hàng năm cho các tù trưởng Hung
Nô để đổi lấy hòa bình giữa hai bên. Chính sách này đã kéo dài liên tục trong
70 năm.
IV. Kế nghiệp
Năm 195 TCN,
Hán Cao Tổ bị thương bởi một mũi tên đi lạc khi đi dẹp loạn Anh Bố. Ông bị ốm phải nằm trong cung,
không muốn gặp ai, sai thị vệ canh phòng không cho ai vào. Sức khỏe của ông
ngày càng xấu đi và Lã Hậu cho mời những thầy thuốc giỏi nhất để
cứu chữa. Khi Hán Cao Tổ hỏi về tình trạng của mình, thầy thuốc nói rằng bệnh
của ông có thể được chữa khỏi. Tuy nhiên, Hán Cao Tổ không hài lòng và đã mắng
thầy thuốc rằng: "Ta đây quần thô áo vải, tay 3 tấc gươm cùn mà đoạt thiên
hạ, há chẳng phải ý trời hay sao? Sống chết có mạng, dù có đến Biển Thước cũng không thay đổi được!". Hán
Cao Tổ từ chối thuốc men điều trị và mời thầy thuốc đi với một số vàng. Ông sau đó qua đời ở
cung Trường Lạc vào ngày 1 tháng 6 năm 195 TCN,
hưởng thọ 63 tuổi. Ông được truy tôn miếu hiệu là Hán Cao Tổ Cao Hoàng Đế nên thường gọi tắt là Hán Cao Tổ, thụy hiệu là Cao Hoàng đế, cũng được gọi là Hán Cao Đế.
Thái tử Lưu Doanh, con trai cả
Cao Tổ với Lữ Hậu, thừa
kế cơ nghiệp, tức Hán Huệ Đế. Tuy nhiên, Cao Tổ vốn không thích Lưu Doanh vì cho
rằng Doanh quá yếu đuối. Con trai Thích phu nhân, người thiếp yêu của ông, là Như Ý được ông định lập
lên thay Thái tử nhưng bất thành vì các quan trong triều vẫn trung thành với
Thái tử và Lữ Hậu. Ông bèn phong Như Ý làm Triệu Vương.
Sự sủng ái của Hán Cao Tổ dành cho Thích Phu nhân và Như Ý khiến Lã hậu căm giận. Sau khi Huệ Đế lên nối
ngôi, Lã Hậu nắm hết quyền lực trong tay, đầu độc giết Như Ý và tra tấn đến
chết Thích Phu nhân. Ngoài ra, nhiều người con khác của Lưu Bang cũng lần lượt
bị Lã Hậu giết.
V. Bình luận
Nếu nhìn một cách toàn diện, chúng ta sẽ
thấy rằng Hán Cao Tổ rất giỏi ở 6 điểm:
1- Đúng người, đúng việc.
Đầu
tiên phải hiểu rõ sở trường, sở đoản của nguồn nhân lực hiện có, từ đó mới phân
việc phù hợp. Lưu Bang hiểu rất rõ tài năng quan trọng nhất của một nhà lãnh
đạo là làm thế nào để khuyến khích tính tích cực, chủ động trong công việc được
giao của những người dưới quyền. Lưu Bang dùng Hàn Tín trong việc điều hành
binh lực, Trương Lương làm quân sư, Tiêu Hà lo chuyện hậu cần… và đã phát huy
tối đa năng lực của từng người.
2- Không câu nệ nguồn gốc
Lưu
Bang có một ưu điểm rất lớn đó là ông không câu nệ trong việc dùng người tài.
Những người tài dưới trướng ông xuất thân từ nhiều tầng lớp khác nhau trong xã
hội (quý tộc: Trương Lương, du sĩ: Trần Bình, huyện sử: Tiêu Hà, phu xe: Lâu
Kính, cường đạo: Bành Việt…), nhưng dưới sự chỉ đạo của Lưu Bang họ đều phát
huy hết tài năng của mình. Lịch sử đã chứng minh sách lược dùng người của Lưu
Bang là rất đúng đắn, khôn ngoan.
3- Bỏ qua hiềm khích
Trong
đội ngũ nhân lực của Lưu Bang có rất nhiều người đã từng phục vụ dưới trướng
của Hạng Vũ. Lưu Bang vẫn mở rộng vòng tay, không tính toán, hoan nghênh họ gia
nhập đội ngũ của mình. Như Hàn Tín vốn dĩ là thuộc hạ của Hạng Vũ, nhưng dưới
trướng của Hạng Vũ, Hàn Tín không phát huy được hết tài năng của mình, nên mới
qua đầu quân cho Lưu Bang. Thực ra một người lãnh đạo mà lúc nào cũng tính toán
thiệt hơn, soi mói… thì không bao giờ chiêu mộ được nhân tài, thậm chí các nhân
lực hiện có của họ sớm muộn cũng lần lượt ra đi.
4- Chân thành đối đãi
Lưu
Bang có được sự trợ giúp tận tâm tận lực của các hiền tài như Hàn Tín, Trương
Lương… chủ yếu là nhờ ông luôn tín nhiệm, tôn trọng họ và cũng nhận lại được sự
tín nhiệm và tôn trọng của họ. Đây cũng là một kinh nghiệm rất quý báu, đáng để
học hỏi.
5- Tin tưởng giao việc cho thuộc hạ
Điều
tối kị của một nhà lãnh đạo là luôn nghi ngờ nhân viên của mình: hôm nay nghi
ngờ người này, ngày mai nghi ngờ người khác. Lưu Bang có một ưu điểm nổi bật là
khi quyết định dùng người nào, ông luôn tin tưởng giao cho người đó được toàn
quyền xử lý công việc được giao.
6- Thưởng phạt phân minh
Trong
việc sử dụng người tài, ngoài việc tín nhiệm và tôn trọng, phải có chế độ
thưởng phạt phân minh. Khen thưởng chính là một sự thừa nhận thiết thực nhất
của nhà lãnh đạo đối với cống hiến của thuộc cấp. Sau khi đoạt được thiên hạ,
Lưu Bang đã dựa vào công tích của từng cá nhân để ban thưởng. Ngoài việc ban
thưởng cho những người có công lớn như Hàn Tín, Trương Lương, Bành Việt, Hán
Cao Tổ còn ban thưởng cho Ung Xỉ - một người mà ông vẫn có thành kiến.
*Nói
chung, với những gì đã làm để gầy dựng đất nước Trung Quốc thời Hán thịnh trị,
dù còn nhiều thiếu sót như không giữ lễ nghĩa và chữ tín với kẻ thù lẫn những
người cộng sự, không giữ được sự yên bình chốn hậu cung, … nhưng Lưu Bang đã
khắc họa được hình ảnh của một bậc chính nhân quân tử dù đôi chút còn thô lỗ và
khiến nhiều người bất mãn. Một trang anh hùng tạo nên một triều đại nổi bật của
sử sách Trung Quốc, một bậc anh tài khi dẹp loạn để xưng vương, Lưu Bang – Hán
Cao Tổ đã thay đổi số phận từ người nông dân thành bậc Thiên Tử, biến chuyển
loạn lạc và bức bách từ đế chế Tần sang triều đại nhà Hán dù đa phần vẫn giữ
nguyên cơ sở trị quốc của nhà Tần.
Những
câu chuyện về Hán Cao Tổ hoàng đế còn rất nhiều, đó sẽ là những câu chuyện về
chốn hậu cung của hoàng hậu Lã Trĩ, là câu chuyện về những chiến công hiển hách
chẳng bao giờ là đủ … Dù người đời còn nhiều tranh cãi về nhiều việc làm của
ông, nhưng mong rằng với bài giới thiệu về Hán Cao Tổ này, chúng ta sẽ có cái
nhìn toàn diện nhất về một trong 10 hoàng đế vĩ đại nhất Trung Hoa, để mỗi
chúng ta sẽ tự có cái nhìn của riêng mình về ông – Hán Cao Tổ.
Cảm ơn nguồn tài
liệu từ Wikipedia , baomoi.vn , Hội những người thích đọc sách chiến lược ,
v.v….