Thứ Bảy, 10 tháng 12, 2016

[Thơ] Khúc thụy du


                                                  Khúc thụy du



Có chàng trai ngồi trên đồi cỏ

Tiếng sáo vi vu

Những giấc mơ đã cũ

Về trong tiếng gió ru.



Mộng giang san chàng để sau lưng

Để trái tim khẽ đập

Theo nhịp chân cô gái thôn bé nhỏ

Lang thang giữa phiêu du lãng đời.



Đem gió về chàng thả vào giếng hoang

Tiếng nước tí tách, bụi lang thang

Nhiều năm trước khi chàng còn nhỏ

Gió vẫn lang thang giữa đại ngàn.



Nằm im trong nội cỏ xanh rơn

Nấp trong bão tố đứng cảm ơn

Giữa cơn giông tố còn mong mỏi

May sao bão táp, gió chỉ vờn.



Thụy du miên man niềm khắc khoải

Vi vu giữa núi đồi

Chàng trai yêu cô gái nhỏ

Yêu cả đất trời muôn trùng khơi.

                                                                  M.H.

Thứ Sáu, 25 tháng 11, 2016

[Thơ] Đời 1

                                         Đời 1
 
Thác Datanla - Đà Lạt 2015

Vương chút nắng còn đọng lại nơi vệ đường
Ngấm chút mưa của kỉ niệm nhớ thương
Gửi vào gió mang về nơi xa thẳm
Biển thì thầm, đời tựa một màn sương

Ngẩn ngơ nhìn bụi cỏ ven đường
Có chú chim nhỏ nhẩn nha vui thú
Bãi xanh mướt hôm nay là của chú
Vì ngày mai, ai biết sở hữu ai?

Nằm khắc khoải bên những giấc mộng dài
Ảm đạm đời gà mái chẳng bới giun
Con chó già cũng chỉ nằm thè lưỡi
Khỉ cười, vượn khóc, nhọc thân lươn

Ừ thì… ừ … ừ thì
Đi và bước, chân chữ hoà vi
Mấy giọt đào rơi nhẹ song ly
Sông cạn khô, những dòng trôi bữa cuối.


                                                                   M.H.

[Thơ] Giông

                                  Giông
 
Côn Đảo 2016

Sông từ suối mà dạt dào
Cây nhờ cội mà sinh trưởng
Bão theo gió mà gầm rú
Vậy Giông nổi từ đâu?

Mấy ngàn năm sông sâu
Sao đáy vẫn mờ ảo
Giữa muôn trùng gió bão
Sao vẫn thấy cơn giông

Bão nói Giông chơi ngông
Thích xen cuộc vui nhỏ
Bão thích được vẫy vùng
Một mình ta một thuở

Mình Giông, ai có hiểu?
Giông nhờ gió mà lên
Cùng bão bùng đêm đêm
Cuốn qua ngôi làng nhỏ

Gió ghé qua hỏi nhỏ
Thế một mình Giông thôi
Những làng mạc ngập trôi
Liệu có còn tan tác?

Đời có gió là mát
Có bão thì bập bùng
Thế có Giông nổi vùng
Trái tim có nghẹn lại?
                                     

                                                M.H.

Thứ Hai, 10 tháng 10, 2016

[Thơ] Mây

                                             Mây



Mây à, hãy sống đời nhỏ nhoi
Là chính mình, là màu trắng tinh khôi
Tô điểm thêm cho nền trời xanh thẳm 
Lặng lẽ đời, lặng lẽ đơn côi...

Trách chi khi làm nền cho số phận 
Nghĩ chi khi chỉ là kẻ lãng du
Để một mai bay về nơi xa thẳm
Mây khóc thầm, khóc kiếp mãi chu du...

Ai buồn cho mây những ngày mưa đến sớm
Ai nở nụ cười đem chút nắng chói chang
Mây vẫn vậy, vẫn lặng lẽ ngỡ ngàng
Vẫn ngỡ là còn chút gì để nhớ...

Lặng lẽ đến đem chút sắc cho đời
Lặng lẽ đi vẹn tiếng cười chưa tắt
Mây tiếp tục, tất bật, tất bật...
Vòng tuần hoàn, mây vẫn chính là mây.
                               
                                                M.H.

Chủ Nhật, 18 tháng 9, 2016

[ Thơ sáng tác từ ảnh] Mẹ, con trai và lồng đèn

                                        Mẹ, con trai và lồng đèn

Nguồn ảnh như trên hình
Có những niềm đau chỉ mãi là kí ức
Có những hi vọng chỉ mãi ở xa xôi
Chỉ có mẹ con tôi
Là hạnh phúc của những ngày hiện tại.

Có chiếc lồng đèn mua tạm lúc khuyến mại
Có chiếc bánh nhỏ mua vội lúc đèn lên
Chỉ có mẹ con tôi
Ai mua được hạnh phúc mùa trung thu năm ấy.

Và đi khắp chân trời để mở rộng, để thấy
Để yêu thêm những tháng ngày vất vả hôm nay
Chỉ có mẹ con tôi
Bên nhau là quá đủ cho một lần được sống.

Con trai nhỏ đôi khi chẳng sáng suốt
Đôi vai gầy, mẹ cũng phải run run
Nhưng ở cạnh con thôi
Cả đất trời ở trong chiếc lồng đèn nhỏ.

                                                                    M.H.

Thứ Bảy, 17 tháng 9, 2016

[Thơ] Nước rơi - Mưa ngã

                                                    Nước rơi




Mưa...
Dòng lũ đen chảy cuồn cuộn
Có cậu bé trượt chân té
Tiếng khóc cứ hòa lẫn vào tiếng mưa.....

Mưa... 
Nước ngập cả vào nhà
Xắn tay áo lên nào!
Cả nhà ta tát nước...

Mưa...
Triều cường dâng đều theo cơn mưa nặng hạt
Tiếng trẻ con í ới đùa vui
Cả tuổi thơ ùa về qua cơn gió lạnh...

Mưa... mưa... mưa hoài....
Cả dòng người mệt nhọc
Mặc cho cơn mưa tầm tã lạnh giá
Dòng người vẫn cứ mãi tất bật ngược xuôi...
  
                                                               M.H.

[Thơ] Đất nước của bé con

                        Đất nước của bé con

Nguồn: Hiếu Mèo

Này bé con…
Hôm nay trời đẹp nhỉ
Mấy cánh chim bé tí
Lượn mấy tầng mây xanh.
Và anh
Và bé con của anh
Mình nắm tay
Trên con đường rộn rã
Có hoa và rất đông người nữa
Đang reo hò vì đất nước tự do.

Mà bé con này
Việt Nam ta đẹp nhỉ
Mấy cánh đồng cò thẳng cánh bay lên
Mấy rặng dừa rì rào bên bờ biển
Cả mấy con ó biển rỉa mình trên mõm đá
Cũng khoan khoái cho giấc mộng hôm qua.

Còn anh đây mãi tâm hồn lo xa
Mất một tấc, mình chết đi một ít
Ở mãi tận chân trời xa tít
Biết bao thuyền bè lại mất biển ra khơi
Biết bao trùng khơi lại vỗ về cho nước lạ
Biết bao dòng cá đầy ắp chẳng vui vầy
Và cả non sông cùng nỗi niềm căm phẫn.

Mà bé ơi, phải mỉm cười phấn chấn
Rằng quanh em là chín vạn nghìn ngọn đuốc
Cùng thắp sáng cho chân lý Việt Nam
Dưới chân em có dòng máu cha Rồng
Vươn chín thân rồng giữ yên bờ cõi
Và trong em là trái tim chói lọi
Thà chết không mất tấc nước nào
Rằng dân ta hàng triệu giọt máu đào
Hòa chung đậm đà cho chén Nước.

Nhớ nhé em,
Bên em không chỉ là rừng đước
Mà là cả bạt ngàn đất phù sa
Cả cánh rừng mênh mông ngày hôm qua
Cũng chung lòng với biển cha nổi dậy
Mặt em là trăng rằm thơ ngây
Hãy mang niềm tin đời chân lý
Hoàng Sa của mấy vạn hải lý
Cùng Trường Sa
Là máu thịt
Là anh em
Của em
Của đồng bào
Của đất mẹ Việt Nam ta.

                                                               M.H.

[ Tư liệu lịch sử ] Hán Cáo Tổ - Trung Hoa quốc


Hán Cao Tổ - Lưu Bang


I. Giới thiệu chung
Hán Cao Tổ Cao Hoàng Đế, nhưng thường được gọi tắt là Hán Cao Tổ là vị Hoàng đế sáng lập nhà Hán trong lịch sử Trung Quốc. Ông họ Lưu tên Bang, sử quan đời Hán chép là Lưu Quý vì ông là con thứ ba trong gia đình (vì sợ phạm húy nên không viết, tên Quý chứng tỏ Lưu Bang là con thứ ba, theo tứ tự: Bá, Trọng, Quý.)
Ông ở ngôi Hoàng đế được 8 năm (từ năm 202 TCN đến 195 TCN), nếu tính cả thời gian đầu (từ năm 206 TCN lúc ông mới xưng Vương) thì thời gian ở ngôi tổng cộng là 12 năm.
Lưu Bang là một vị vua sáng lập ra một triều đại xuất phát từ giai cấp nông dân. Trong giai đoạn đầu, Lưu Bang đã được biết đến với danh hiệu "Bái công", với chữ "Bái" là đề cập đến quê hương của ông. Ông cũng được phong là "Hán vương" bởi Hạng Vũ khi chia đế chế Tần thành Mười tám nước. Lưu Bang được biết đến bởi danh hiệu này trước khi trở thành Hoàng đế của Trung Quốc.
II.Tiểu sử
Lưu Bang được sinh ra trong một gia đình nông dân ở người ở thôn Dương Lý, huyện Bái, nay là thành phố Từ Châu, Trung Quốc. Tên cha mẹ của ông không được ghi lại trong lịch sử và chỉ được gọi là Lưu Thái Công và Lưu Ẩu. Người ta nói rằng mẹ ông do mang thai với rồng mà sinh ra Lưu Bang. 
 Theo Sử ký Tư Mã Thiên, Lưu Bang có mũi cao, râu dài giống rồng và có 72 nốt ruồi trên chân trái. Ông không lo nghĩ đến sản nghiệp, không câu nệ chuyện nhỏ nhặt. Tính tình tuy khá buông thả (Sử ký mô tả là “thích rượu và gái”), song lại thẳng thắn, lôi cuốn, lại biết nhẫn nhục và khoan dung.
Lưu Bang từng phải đi phu ở Hàm Dương và từng trông thấy vua Tần Thủy Hoàng. Sau đó ông làm Đình trưởng ở Tứ Thượng. Từ đó, ông quen biết và thân thiện với những người như Hạ Hầu Anh, Tiêu Hà, Tào Tham. Trong khi uống rượu với bạn bè của mình trong các quán rượu địa phương, họ thường nhận thấy hình bóng của một con rồng trên người Lưu Bang bất cứ khi nào ông say rượu, vì vậy các chủ quán rượu cảm thấy Lưu Bang là một người phi thường và thường cho ông uống rượu miễn phí.
Ông có vợ là hoàng hậu Lã Trĩ cùng với 7 phi tần thường được nhắc đến và hàng ngàn phi tần được tuyển chọn. Ông cũng có 9 người con với các bà vợ của mình trong đó có Lưu Doanh sau này là Hán Huệ Đế và Lưu Hằng sau là Hán Văn Đế
III. Sự nghiệp
            Sự nghiệp của Lưu Bang có thể tóm tắt thành 3 giai đoạn chính:
1)     Khởi binh chống Tần
*Trảm xà khởi nghĩa ( khởi nghĩa chém rắn)
            Lưu Bang được huyện lệnh huyện Bái giao trọng trách đưa một số người bị kết án và dân phu đi tới núi Lý Sơn để xây dựng lăng mộ của Tần Thủy Hoàng. Vốn sợ nặng nhọc, đi đến nữa đường, bọn dân phu trốn quá nữa, đêm đến nghỉ tại trạm Chãm Phong Tây, Lưu Bang thương tình cho trốn, với hơn mười tráng sĩ đều nguyện đi theo giúp sức. Trong truyền thuyết, họ gặp phải một con mãng xà đã giết chết một số người bằng hơi thở độc hại của nó. Lưu Bang bèn giết mãng xà và sau đó gặp phải một bà già khóc lóc trên đường vào sáng hôm sau. Khi người của Lưu Bang hỏi tại sao lại khóc, bà trả lời: "Con tôi, con trai của Bạch đế, bị giết chết bởi con trai của Xích đế" và biến mất một cách bí ẩn. Nghe được câu chuyện lạ lùng này, người của Lưu Bang tin rằng ông có chân mệnh đế vương. Sự kiện này do đó được gọi là Trảm xà khởi nghĩa.

*Thu phục huyện Bái

Lưu Bang và những người theo ông lẩn trốn trên núi Mang gần đất Bái và sống ngoài vòng pháp luật. Ông tuy vậy vẫn duy trì việc bí mật liên lạc với bạn bè cũ của mình ở quê nhà, chẳng hạn như Tiêu Hà  Tào Tham. Tháng 7 năm 209 TCN, Trần Thắng  Ngô Quảng khởi nghĩa, khắp Sơn Đông, Hà Bắc các nơi đều hưởng ứng. Quan lại địa phương của nhà Tần không chế ngự được.
Quan huyện Bái thấy khắp nơi, anh hùng đứng lên khởi nghĩa nên cũng muốn khởi quân tham gia, bèn theo lời khuyên của Tiêu Hà, Tào Tham, cho Phàn Khoái (một họ hàng của Lưu Bang) mời Lưu Bang về để tăng thanh thế. Lưu Bang cùng người của mình đến nơi, quan huyện lại đổi ý, đóng cửa thành, lại muốn giết cả Tiêu Hà, Tào Tham vì sợ những người này làm nội ứng. Tiêu Hà, Tào Tham trốn theo Lưu Bang, bàn kế cho Lưu Bang bắn thư vào thành thuyết phục các bậc trưởng lão để họ cho con em đuổi quan huyện để đón mình. Kế thành công. Lưu Bang được tôn làm “Bái Công” lãnh đạo con em huyện Bái tham gia khởi nghĩa.

*Tìm nơi nương tựa

Năm 208 TCN, Giám quận Tứ Xuyên của nhà Tần tên là Bình đem quân vây đất Phong. Lưu Bang xông ra đánh, thắng trận. Lưu Bang sai Ung Xỉ giữ đất Phong, còn mình đem binh đến đất Tiết, đánh thái thú ở Tứ Xuyên của nhà Tần tên là Tráng. Tráng bị đánh bại bỏ chạy đến huyện Thích, bị Tả tư mã của Lưu Bang bắt được và giết chết.
Lưu Bang quay về đóng quân ở Cang Phụ và đi đến quận Phương Dư. Cùng lúc đó tướng nước Ngụy là Chu Thị  sai người dụ Ung Xỉ đang giữ đất Phong. Ung Xỉ thuận hàng theo nước Ngụy.
Lưu Bang bị mất đất Phong rất tức giận nhưng sức không đủ chiếm lại. Lúc đó ông nghe tin nói Ninh Quân và Tần Gia đã lập Cảnh Câu làm Sở Giả vương ở thành Lưu để thay thế Trần Thắng bị hại, bèn đến theo họ, ý muốn xin quân để đánh đất Phong. Hai người đem quân trở về, tập hợp quân ở đất Lưu rồi đem binh đánh chiếm được đất Đường, thu binh được hơn 5000 người. Sau đó, ông đánh lấy được Hạ Ấp rồi cùng Ninh Quân đem quân về đóng gần đất Phong.
Ít lâu sau, Hạng Lương khởi binh ở đất Ngô, vượt sông Trường Giang, đánh diệt Tần Gia. Lưu Bang nghe tin Hạng Lương đóng quân ở thành Tiết, nên đem một trăm quân kỵ yết kiến. Hạng Lương cho Lưu Bang 5000 quân, 10 ngũ đại phu làm tướng.
Quân Tần lại tập hợp lại, ở thành giữ Bộc Dương, dựa vào sông ngòi vây bọc để cố thủ. Lưu Bang và Hạng Vũ không hạ được bèn bỏ đi, đánh Định Đào nhưng không hạ được thành, lại đem quân về phía tây cướp đất. Hai tướng đi đến chân thành Ung Khâu, đánh nhau với quân Tần, chém được Thái thú quận Tam Xuyên của nhà Tần là Lý Do (con Tả thừa tướng Lý Tư) rồi quay về đánh Ngoại Hoàng nhưng không lấy được, lại đi đánh Trần Lưu.

*Tây tiến vào Hàm Dương

Lưu Bang đem quân đi về hướng tây gặp Bành Việt ở Xương Ấp, cùng nhau tấn công thành này nhưng không hạ được. Ông bèn chia tay Bành Việt quay về đến đất Lật, gặp Cương Vũ Hầu, cướp quân của Cương Vũ Hầu được hơn 4000 người gộp vào quân mình, rồi cùng tướng nước Ngụy là Hoàng Hân, và Thân Đồ Vũ Bồ hợp lực đánh Xương Ấp nhưng chưa lấy được.
Lưu Bang được Nho sĩ Lịch Tự Cơ khuyên Lưu Bang đánh úp thành Trần Lưu, nhờ vậy lấy được thóc lúa của nhà Tần để lại. Lưu Bang cho Lịch Tự Cơ làm Quảng Dã Quân, cho em Tự Cơ là Lịch Thương làm tướng, chỉ huy quân ở Trần Lưu và cùng họ đánh Khai Phong nhưng chưa lấy được Khai Phong.
Lưu Bang lại mang quân sang phía tây đánh nhau với tướng Tần là Dương Hùng ở Bạch Mã, lại đánh ở phía đông Khúc Ngộ. Tần Nhị Thế sai sứ giả chém Dương Hùng để răn mọi người. Lưu Bang mang quân về phía nam đánh Dĩnh Dương.
Nghe theo kế của Trương Lương, ông tiến quân chiếm đất Hàn và đất Hoàn Viên. Cùng lúc đó tướng nước Triệu là Tư Mã Ngang đang muốn vượt sông Hoàng Hà để vào Quan Trung trước các chư hầu. Lưu Bang liền đánh Bình Âm ở phía Bắc, cắt đứt bên sông phía nam sông Hoàng Hà, chặn đường Tư Mã Ngang và vây thành Nam Dương.
Thái thú Nam Dương là Nghị sợ hãi muốn đâm cổ chết, nhưng nghe lời môn hạ là Trần Khôi khuyên, bèn đầu hàng. Lưu Bang phong cho Nghị làm Ân Hầu, phong cho Trần Khôi 1000 hộ.
Lưu Bang sai người nước Ngụy là Ninh Xương đi sứ đến Tần. Sứ giả chưa đến thì tướng Tần là Chương Hàm đã đem quân đầu hàng Hạng Vũ ở đất Triệu; các chư hầu đều theo Hạng Vũ.
Cuối năm 207 TCN, hoạn quan Triệu Cao giết Tần Nhị Thế và cho người đến gặp Lưu Bang, muốn giao ước chia đất Quan Trung và làm vương. Lưu Bang lại đánh nhau với quân Tần ở phía nam Lam Điền, càng treo thêm cờ xí để làm nghi binh, đi đến đâu thì cấm không được cướp bóc bắt bớ. Người Tần do đó mừng rỡ, quân đội Tần tan rã, Lưu Bang nhân đó thắng được quân Tần. Ông tiến quân lên phía bắc thắng quân Tần một trận nữa.
Tháng 10 năm 206 TCN, quân của Lưu Bang đến Bá Thượng trước quân chư hầu. Vua Tần là Tử Anh đi xe mộc do ngựa trắng kéo, ở cổ quấn sợi dây ấn, niêm phong ấn hoàng đế, phù và cờ tiết đầu hàng ở gần Chỉ Đạo. Lưu Bang cho Tử Anh đầu hàng. Các tướng có người bàn nên giết vua Tần, nhưng Lưu Bang không nghe theo.

*Lui bước trước Hạng Vũ

Lưu Bang đi về phía tây vào Hàm Dương muốn dừng lại ở trong cung thất nhà Tần nghỉ ngơi. Phàn Khoái và Trương Lương can không nên, Lưu Bang mới niêm phong kho tàng, của quý báu của Tần rồi trở về đóng quân ở Bá Thượng, triệu tập các vị phụ lão và những thân hào ở các huyện đến và tuyên bố:
"Ta cùng chư hầu giao ước: "Ai vào Quan Trung trước thì người ấy được làm vua". Vậy ta phải làm vua ở Quan Trung. Ta cam kết với các vị phụ lão rút gọn pháp luật và ban ba điều mà thôi: Ai giết người thì phải chết, làm người bị thương và ăn trộm thì theo tội mà xử. Còn bỏ tất cả luật pháp của Tần. Quan lại và nhân dân vẫn bình an như xưa. Ta đến đây chẳng qua là vì các vị phụ lão trừ hại chứ không phải cốt xâm phạm, làm việc hung bạo. Không có gì phải sợ. Vả lại ta sở dĩ quay về đóng quân ở Bá Thượng là để đợi quân của chư hầu đến định điều giao ước mà thôi."
Lưu Bang sai người cùng quan lại nhà Tần đi các huyện, các làng, các ấp tuyên truyền lệnh đó. Người Tần rất mừng, tranh nhau mang bò, dê, rượu, thức ăn đến để khao quân sĩ, nhưng Lưu Bang đều từ chối không nhận.
Có người hiến kế Lưu Bang nên giữ lấy đất Tần hiểm trở giàu có để chống lại chư hầu, án ngữ cửa Hàm Cốc không cho quân chư hầu vào, và trưng thêm quân ở Quan Trung cho thêm đông để chống lại. Lưu Bang cho là phải và theo kế đó.
Giữa tháng 11 năm 206 TCNHạng Vũ thống lĩnh quân chư hầu tiến vào nước Tần, tới cửa ải Hàm Cốc, nhưng ải đã bị phong tỏa. Hạng Vũ lại nghe nói Lưu Bang đã bình định được Quan Trung, rất tức giận, sai Anh Bố tấn công phá cửa Hàm Cốc.
Chú Hạng Vũ là Hạng Bá muốn cứu bạn là Trương Lương đang phục vụ cho Lưu Bang nên đang đêm đến gặp Trương Lương, khiến ý định của Hạng Vũ bị lộ. Trương Lương dắt luôn Hạng Bá vào gặp Lưu Bang. Ông bèn kết thân với Hạng Bá, hẹn nhau làm thông gia và nhờ nói giúp với Hạng Vũ rằng mình không có ý định chống lại. Hạng Bá trở về khuyên Hạng Vũ, vì vậy Hạng Vũ thôi không khai chiến với Lưu Bang.
Hôm sau, Lưu Bang đến Hồng Môn yết kiến và xin lỗi Hạng Vũ. Hạng Vũ cho ông biết là do Tào Vô Thương đề nghị nên Hạng Vũ mới chuẩn bị giao chiến. Lưu Bang nhờ Phàn Khoái và Trương Lương nên thoát nạn về. Về tới Bá Thượng, Lưu Bang bèn giết Tào Vô Thương.
2)     Tranh thiên hạ với Hạng Vũ

*Bình định Tam Tần

Trở thành người đứng đầu chư hầu, Hạng Vũ phân chia lại các vùng đất không chỉ của Tần mà của cả các nước chư hầu khác có tham gia vào cuộc khởi nghĩa thành 19 nước. Hạng Vũ không thực hiện lời hứa của Sở Hoài Vương và nhanh chóng ám sát Hoài Vương. Thay vào đó Hạng Vũ chia Quan Trung 4 phần, với lý do Hán Trung cũng thuộc Quan Trung nên phong Lưu Bang làm Hán Vương cai trị vùng thuộc Tứ Xuyên, Trùng Khánh và phía nam Thiểm Tây hiện nay. Phần lớn đất Tần cũ, Hạng Vũ chia cho 3 tướng Tần theo hàng mình là Chương Hàm (Ung vương), Đổng Ế (Địch vương) và Tư Mã Hân (Tắc Vương), gọi là Tam Tần để đề phòng Lưu Bang tiến về đông.
Tháng 4 năm 206 TCN, Lưu Bang trở về đất phong, được cấp 3 vạn quân. Theo lời khuyên của Trương Lương, ông đi qua đường sạn đạo xong liền đốt và cắt đứt đường sạn đạo để đề phòng quân chư hầu đánh úp, đồng thời để chứng tỏ cho Hạng Vũ thấy rằng mình không có ý đi về hướng đông.
Tướng sĩ dưới quyền ông nhiều người không muốn vào đất Thục hiểm trở mà muốn trở về quê ở phương đông. Khi đến Nam Trịnh, các tướng sĩ nhiều người trốn về. Theo sự tiến cử của Tiêu Hà  Hạ Hầu Anh, Lưu Bang bèn phong Hàn Tín – người vừa bỏ trốn từ nước Sở sang – làm đại tướng, giao cho việc đánh Sở.
Tháng 8 năm 206 TCN, Hán vương dùng mưu kế của Hàn Tín đi qua huyện Cố Đạo đánh úp Ung vương Chương Hàm. Chương Hàm bị quân Hán đánh bại ở Trần Thương, thua chạy đến đất Hạo Trĩ dừng lại đánh. Hàn Tín đánh bại Chương Hàm lần thứ 2, Hàm phải bỏ chạy về Phế Khâu cố thủ.
Lưu Bang đuổi theo, chiếm đất đai của Ung vương, một mặt điều quân vây Phế Khâu, mặt khác đi về đông đánh Hàm Dương và bình định Lũng Tây, Bắc Địa, Thượng Quân. Ông các tướng Tiết Âu, Vương Hấp ra khỏi ải Vũ Quan cùng Vương Lãng đi đón cha là Thái Công và vợ là Lã Trĩ đang ở đất Bái. Quân Sở nghe tin ấy cho quân chặn ở Dương Hạ nhưng cuối cùng quân Hán vẫn đến trước.
Năm 205 TCN, Hán vương đem quân đánh Tắc Vương Hân và Địch vương Ế và Hà Nam vương Thân Dương. Ba vua chư hầu không chống nổi phải đầu hàng.

*Tiến vào Bành Thành

Hàn vương Trịnh Xương (được Hạng Vũ cử thay Hàn vương Thành) chống lại quân Hán không chịu hàng, bị Đại tướng Hàn Tín đánh bại. Sau khi đánh chiếm nước Hàn, Lưu Bang lập viên tướng và là dòng dõi nước Hàn cũ, cũng tên là Hàn Tín làm Hàn vương.
Tháng ba năm đó, Hán vương từ Lâm Tấn vượt qua sông đánh Ngụy. Tây Ngụy vương Báo đầu hàng, đem binh theo Hán vương lấy Hà Nội. Ân vương Tư Mã Ngang bị bắt. Hán vương bèn vượt qua sông Hoàng Hà ở bến Bình Âm, rồi đem quân đến Lạc Dương. Lúc bấy giờ Hạng vương đang đem quân về hướng bắc đánh Tề, chưa bình định được. Nhân cơ hội ấy Hán vương thúc ép quân năm nước chư hầu đánh vào Bành Thành, kinh đô Tây Sở.
Sau khi chiếm được Bành Thành, Hán vương không chú ý phòng thủ, sa vào hưởng thụ. Hạng Vũ nghe tin, đem 3 vạn quân từ đất Tề trở về đánh Bành Thành, đại phá quân Hán. Ông được Hạ Hầu Anh đánh xe chạy trốn, bị quân Sở đuổi phía sau. Giữa đường gặp con trai Lưu Doanh cùng con gái. Sợ xe nặng đi chậm, Lưu Bang đẩy hai con nhỏ ra khỏi xe. Hạ Hầu Anh vội nhảy xuống bế lên. Lưu Bang thấy quân Sở đuổi gần lại đẩy con xuống. Cứ như vậy 3 lần nhưng Hạ Hầu Anh đều xuống cứu hai con ông, cuối cùng cả 4 người đi thoát.
*Hòa ước Hồng Câu và xé bỏ hòa ước
Hạng Vũ đánh mãi không thắng bèn mang cha Lưu Bang là Thái công ra đặt lên thớt để buộc ông phải hàng, dọa nếu không hàng thì giết Thái công. Lưu Bang sợ bị người chê cười là kẻ bất hiếu nên có ý hàng, nhưng Tiêu Hà ngăn lại và hiến kế cho Lưu Bang đối đáp. Lưu Bang đứng trên thành, dõng dạc trả lời Hạng Vũ: “Ta và ngươi đã kết làm anh em, cha ta cũng như cha ngươi. Nếu ngươi muốn giết cha ngươi thì cho ta xin bát canh với”. Hạng Vũ nghe nói như vậy đành thôi ý định dùng Thái công để dọa ông.
Sau đó Lưu Bang và Hạng Vũ gặp nhau ở Quảng Vũ đối trận. Hạng Vũ ngầm bắn trúng Lưu Bang. Ông bị trúng tên ở bụng nhưng lại sờ vào ngón chân kêu đau, khiến tướng sĩ nghĩ rằng ông bị thương nhẹ.
Hai bên thu quân về. Lưu Bang bị thương nặng phải nằm. Trương Lương ép nài ông cố gắng trấn an quân sĩ để quân sĩ an lòng đừng cho quân Sở thừa cơ đánh thắng Hán. Vì ông cố đi ra trước hàng quân bệnh càng nặng thêm. Sau đó ông chạy vào Thành Cao.
Ít lâu sau khỏi bệnh, ông vào Quan Trung tập hợp thêm binh sĩ rồi trở lại Quảng Vũ. Hạng Vũ lo lắng bèn cùng Lưu Bang giao ước chia khoảng giữa thiên hạ.
Theo giao ước, cắt đất từ Hồng Câu về phía tây là của Hán; từ Hồng Câu về phía đông là của Sở. Hạng vương trả lại cha và vợ Hán vương. Sau đó hai bên trở về và từ biệt ra đi mỗi người một phía.
Lưu Bang định làm theo hòa ước đem quân về phía tây nhưng Trần Bình  Trương Lương khuyên ông nên xé bỏ hòa ước, tiến quân đuổi đánh Hạng Vũ để nhanh chóng diệt Sở.
Lưu Bang nghe theo, bèn tiến quân đuổi theo, dừng lại ở Dương Hạ, hẹn các chư hầu cùng đánh Sở. Nhưng khi đại quân Lưu Bang tới Cố Lăng thì quân Hàn Tín, Bành Việt vẫn không đến. Kết quả quân Hán bị quân Sở đánh cho đại bại. Lưu Bang lại vào thành, đắp thành cao, đào hào sâu để giữ.
Theo kế của Trương Lương, ông sai sứ đi đề nghị Hàn Tín  Bành Việt ra quân, hứa sẽ phong cho 2 người ở nước Tề và nước Lương sau khi thành công. Mặt khác, ông gọi thêm các hàng tướng nước Sở như Anh Bố, Chu Ân cùng Lưu Giả đánh vào hậu phương của Hạng Vũ.
Năm 202 TCN, Hàn Tín và Bành Việt mang đại quân đến họp. Các cánh quân cùng vây đánh Hạng Vũ ở Cai Hạ. Quân Hán quá đông khiến Hạng Vũ không địch nổi, phải rút vào thành Cai Hạ. Sau đó quân Sở tan rã, Hạng Vũ bỏ thành chạy. Lưu Bang sai kỵ tướng quân Quán Anh đuổi theo. Hạng Vũ chạy đến Ô Giang thì tự vẫn, nước Sở hoàn toàn bị tiêu diệt.
3)     Lập quốc và cai trị đất nước
Thắng trận, Lưu Bang vội vã trở về đến Định Đào, phi ngựa vào thành của Tề vương Tín, cướp quân của Hàn Tín lần thứ 2.
Sau khi diệt Sở, Lưu Bang lên ngôi hoàng đế ở phía bắc sông Tự Thủy, tức là Hán Cao Tổ. Ông tôn cha là Thái công làm Thái thượng hoàng, lập Lã Trĩ làm hoàng hậu, con trai Lã Trĩ là Lưu Doanh làm thái tử.
Hán Cao Tổ đóng đô ở Lạc Dương là kinh đô cũ của nhà Đông Chu.
Theo Sử ký, ban đầu Hán Cao Tổ muốn đóng đô ở đất Lạc Dương vĩnh viễn. Lâu Kính, người nước Tề nói với Trương Lương. Trương Lương khuyên ông đóng đô ở Quan Trung. Ngay hôm ấy, Cao Tổ lên xe ngựa đến Quan Trung và chọn Tràng An nơi đây làm kinh đô.
Sau khi lên ngôi hoàng đế, Hán Cao Tổ tái tập trung quyền lực quốc gia theo hệ thống nhà Tần. Ông ra lệnh người ở lại Quan Trung sẽ được miễn thuế và sưu dịch trong mười hai năm, những người trở về đất sắc phong của mình sẽ được miễn trong sáu năm và nhà nước cung cấp cho họ trong một năm. Bởi vì nền kinh tế bị tàn phá bởi chiến tranh sau sự sụp đổ nhà Tần, ông cho giảm thuế và giảm bắt dân đi phu, ông cho phát triển nông nghiệp, hạn chế chi tiêu và mang tự do cho những kẻ đã bán mình làm nô lệ để tránh nạn đói trong chiến tranh.
Năm 195 TCN, Cao Tổ đã ban hành hai nghị định, một là chính thức hóa việc hạ thấp thuế và sưu dịch, thứ hai là thay đổi số lượng cống phẩm của các nước chư hầu vào mỗi tháng 10 hàng năm. Thuế đất sản xuất nông nghiệp được giảm. Ông cũng cho tư nhân đúc tiền. Tuy nhiên, vì đã chứng kiến điều mà ông cho là sự suy đồi của giới nhà buôn thời Tần, ông hạn chế thương mại bằng cách áp đặt thuế cao và luật hóa các quy định đối với nhà buôn.
            Về tôn giáo, trong những ngày đầu tiên, Cao Tổ không thích đọc và hạ thấp Nho giáo. Sau khi ông lên ngôi, ông vẫn giữ quan điểm đối với Nho giáo như trước, cho đến khi ông gặp học giả Lục Cố. Lục Cố đã viết một cuốn sách tên Tân Dư, nhấn mạnh lợi ích của việc quản lý đất nước bằng đạo đức hơn là sử dụng pháp luật cưỡng chế. Lục Cố đọc từng chương cho hoàng đế sau khi viết xong, khiến Cao Tổ vô cùng ấn tượng. Dưới triều đại của Hán Cao Tổ, ảnh hưởng của Nho giáo trỗi lên và dần dần thay thế Pháp gia. Các học giả Nho giáo, bao gồm Lục Cố, đã được tuyển dụng vào triều đình và Cao Tổ cũng tiến hành cải cách hệ thống pháp luật, giảm bớt các luật lệ khắc nghiệt từ thời nhà Tần và giảm mức hình phạt.
            Vào thời của Tần Thủy Hoàng, mối đe dọa của Hung Nô ở phía bắc đã xuất hiện. Năm 201 TCN, Hung Nô tấn công nhà Hán, Hàn vương Tín đầu hàng. Mùa đông năm 200 TCN, Hán Cao Tổ đích thân ra quân đánh Hung Nô.
Tại trận Bạch Đăng, 7 vạn quân Hán bị khoảng 300.000 kỵ binh Hung Nô bao vây. Cao Tổ bị cắt nguồn tiếp tế và cứu trợ trong 7 ngày, trong hoàn cảnh rất nguy khốn. Ông theo lời của Trần Bình sai người đến thuyết phục vợ tướng Hung Nô Mặc Đốn là Yên Chi tác động, Mặc Đốn mới rút quân.
Sau thất bại tại Bình Thành, Hán Cao Tổ từ bỏ giải pháp quân sự đối với mối đe dọa từ phía Hung Nô. Ông quyết định nhân nhượng họ bằng cách gả con gái các gia đình quý tộc và cung cấp cống phẩm hàng năm cho các tù trưởng Hung Nô để đổi lấy hòa bình giữa hai bên. Chính sách này đã kéo dài liên tục trong 70 năm.
IV. Kế nghiệp
Năm 195 TCN, Hán Cao Tổ bị thương bởi một mũi tên đi lạc khi đi dẹp loạn Anh Bố. Ông bị ốm phải nằm trong cung, không muốn gặp ai, sai thị vệ canh phòng không cho ai vào. Sức khỏe của ông ngày càng xấu đi và Lã Hậu cho mời những thầy thuốc giỏi nhất để cứu chữa. Khi Hán Cao Tổ hỏi về tình trạng của mình, thầy thuốc nói rằng bệnh của ông có thể được chữa khỏi. Tuy nhiên, Hán Cao Tổ không hài lòng và đã mắng thầy thuốc rằng: "Ta đây quần thô áo vải, tay 3 tấc gươm cùn mà đoạt thiên hạ, há chẳng phải ý trời hay sao? Sống chết có mạng, dù có đến Biển Thước cũng không thay đổi được!". Hán Cao Tổ từ chối thuốc men điều trị và mời thầy thuốc đi với một số vàng. Ông sau đó qua đời ở cung Trường Lạc vào ngày 1 tháng 6 năm 195 TCN, hưởng thọ 63 tuổi. Ông được truy tôn miếu hiệu  Hán Cao Tổ Cao Hoàng Đế nên thường gọi tắt là Hán Cao Tổ, thụy hiệu  Cao Hoàng đế, cũng được gọi là Hán Cao Đế.
Thái tử Lưu Doanh, con trai cả Cao Tổ với Lữ Hậu, thừa kế cơ nghiệp, tức Hán Huệ Đế. Tuy nhiên, Cao Tổ vốn không thích Lưu Doanh vì cho rằng Doanh quá yếu đuối. Con trai Thích phu nhân, người thiếp yêu của ông, là Như Ý được ông định lập lên thay Thái tử nhưng bất thành vì các quan trong triều vẫn trung thành với Thái tử và Lữ Hậu. Ông bèn phong Như Ý làm Triệu Vương.
Sự sủng ái của Hán Cao Tổ dành cho Thích Phu nhân và Như Ý khiến Lã hậu căm giận. Sau khi Huệ Đế lên nối ngôi, Lã Hậu nắm hết quyền lực trong tay, đầu độc giết Như Ý và tra tấn đến chết Thích Phu nhân. Ngoài ra, nhiều người con khác của Lưu Bang cũng lần lượt bị Lã Hậu giết.
V. Bình luận
            Nếu nhìn một cách toàn diện, chúng ta sẽ thấy rằng Hán Cao Tổ rất giỏi ở 6 điểm:
1- Đúng người, đúng việc.
Đầu tiên phải hiểu rõ sở trường, sở đoản của nguồn nhân lực hiện có, từ đó mới phân việc phù hợp. Lưu Bang hiểu rất rõ tài năng quan trọng nhất của một nhà lãnh đạo là làm thế nào để khuyến khích tính tích cực, chủ động trong công việc được giao của những người dưới quyền. Lưu Bang dùng Hàn Tín trong việc điều hành binh lực, Trương Lương làm quân sư, Tiêu Hà lo chuyện hậu cần… và đã phát huy tối đa năng lực của từng người.
2- Không câu nệ nguồn gốc
Lưu Bang có một ưu điểm rất lớn đó là ông không câu nệ trong việc dùng người tài. Những người tài dưới trướng ông xuất thân từ nhiều tầng lớp khác nhau trong xã hội (quý tộc: Trương Lương, du sĩ: Trần Bình, huyện sử: Tiêu Hà, phu xe: Lâu Kính, cường đạo: Bành Việt…), nhưng dưới sự chỉ đạo của Lưu Bang họ đều phát huy hết tài năng của mình. Lịch sử đã chứng minh sách lược dùng người của Lưu Bang là rất đúng đắn, khôn ngoan.
3- Bỏ qua hiềm khích
Trong đội ngũ nhân lực của Lưu Bang có rất nhiều người đã từng phục vụ dưới trướng của Hạng Vũ. Lưu Bang vẫn mở rộng vòng tay, không tính toán, hoan nghênh họ gia nhập đội ngũ của mình. Như Hàn Tín vốn dĩ là thuộc hạ của Hạng Vũ, nhưng dưới trướng của Hạng Vũ, Hàn Tín không phát huy được hết tài năng của mình, nên mới qua đầu quân cho Lưu Bang. Thực ra một người lãnh đạo mà lúc nào cũng tính toán thiệt hơn, soi mói… thì không bao giờ chiêu mộ được nhân tài, thậm chí các nhân lực hiện có của họ sớm muộn cũng lần lượt ra đi.
4- Chân thành đối đãi
Lưu Bang có được sự trợ giúp tận tâm tận lực của các hiền tài như Hàn Tín, Trương Lương… chủ yếu là nhờ ông luôn tín nhiệm, tôn trọng họ và cũng nhận lại được sự tín nhiệm và tôn trọng của họ. Đây cũng là một kinh nghiệm rất quý báu, đáng để học hỏi.
5- Tin tưởng giao việc cho thuộc hạ
Điều tối kị của một nhà lãnh đạo là luôn nghi ngờ nhân viên của mình: hôm nay nghi ngờ người này, ngày mai nghi ngờ người khác. Lưu Bang có một ưu điểm nổi bật là khi quyết định dùng người nào, ông luôn tin tưởng giao cho người đó được toàn quyền xử lý công việc được giao.
6- Thưởng phạt phân minh
Trong việc sử dụng người tài, ngoài việc tín nhiệm và tôn trọng, phải có chế độ thưởng phạt phân minh. Khen thưởng chính là một sự thừa nhận thiết thực nhất của nhà lãnh đạo đối với cống hiến của thuộc cấp. Sau khi đoạt được thiên hạ, Lưu Bang đã dựa vào công tích của từng cá nhân để ban thưởng. Ngoài việc ban thưởng cho những người có công lớn như Hàn Tín, Trương Lương, Bành Việt, Hán Cao Tổ còn ban thưởng cho Ung Xỉ - một người mà ông vẫn có thành kiến.
*Nói chung, với những gì đã làm để gầy dựng đất nước Trung Quốc thời Hán thịnh trị, dù còn nhiều thiếu sót như không giữ lễ nghĩa và chữ tín với kẻ thù lẫn những người cộng sự, không giữ được sự yên bình chốn hậu cung, … nhưng Lưu Bang đã khắc họa được hình ảnh của một bậc chính nhân quân tử dù đôi chút còn thô lỗ và khiến nhiều người bất mãn. Một trang anh hùng tạo nên một triều đại nổi bật của sử sách Trung Quốc, một bậc anh tài khi dẹp loạn để xưng vương, Lưu Bang – Hán Cao Tổ đã thay đổi số phận từ người nông dân thành bậc Thiên Tử, biến chuyển loạn lạc và bức bách từ đế chế Tần sang triều đại nhà Hán dù đa phần vẫn giữ nguyên cơ sở trị quốc của nhà Tần.
Những câu chuyện về Hán Cao Tổ hoàng đế còn rất nhiều, đó sẽ là những câu chuyện về chốn hậu cung của hoàng hậu Lã Trĩ, là câu chuyện về những chiến công hiển hách chẳng bao giờ là đủ … Dù người đời còn nhiều tranh cãi về nhiều việc làm của ông, nhưng mong rằng với bài giới thiệu về Hán Cao Tổ này, chúng ta sẽ có cái nhìn toàn diện nhất về một trong 10 hoàng đế vĩ đại nhất Trung Hoa, để mỗi chúng ta sẽ tự có cái nhìn của riêng mình về ông – Hán Cao Tổ.



 Cảm ơn nguồn tài liệu từ Wikipedia , baomoi.vn , Hội những người thích đọc sách chiến lược , v.v….